Ngành dệt may châu Á - Thái Bình Dương chịu tác động nặng nề do Covid-19

Itech Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Tình trạng nhập khẩu từ các nước là khách hàng lớn của các nước xuất khẩu hàng dệt may ở châu Á đã giảm đến 70% trong nửa đầu năm 2020 do nhu cầu của người tiêu dùng giảm mạnh.
Ngành dệt may châu Á - Thái Bình Dương chịu tác động nặng nề do Covid-19
Ảnh minh họa

Nghiên cứu mới của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã chỉ ra tác động của cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 gây nên đối với các chuỗi cung ứng, các nhà máy và người lao động tại 10 nước sản xuất hàng dệt may lớn nhất trong khu vực, trong đó bao gồm Việt Nam. Doanh số bán lẻ ở các thị trường xuất khẩu chủ chốt giảm mạnh đã ảnh hưởng đến người lao động và các doanh nghiệp trong toàn bộ các chuỗi cung ứng.

Báo cáo nghiên cứu của ILO “Tác động lan tỏa trong chuỗi cung ứng: Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng thế nào đến người lao động và các nhà máy ở châu Á và Thái Bình Dương” cho thấy, tác động của cuộc khủng hoảng gây nên bởi đại dịch Covid-19 đối với các chuỗi cung ứng, các nhà máy và người lao động tại 10 nước sản xuất hàng dệt may lớn nhất trong khu vực bao gồm: Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Myanmar, Pakistan, Philippines, Sri Lanka và Việt Nam.

Báo cáo nhấn mạnh rằng nhập khẩu từ các nước là khách hàng lớn của các nước xuất khẩu hàng dệt may ở châu Á đã giảm đến 70% trong nửa đầu năm 2020 do nhu cầu của người tiêu dùng giảm mạnh, do các biện pháp phong tỏa mà chính phủ áp dụng và do gián đoạn trong nhập khẩu nguyên liệu thô phục vụ sản xuất hàng dệt may.

Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong tám tháng đầu năm 2020, ước đạt 22,39 tỷ USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị thặng dư thương mại đạt 11,92 tỷ USD giảm 10% so với cùng kỳ năm 2019. Trong bảy tháng đầu năm 2020, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu vải và may mặc lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 47%, tiếp sau đó là Nhật Bản và Liên hiệp châu Âu.

Tính đến tháng 9-2020, gần một nửa số việc làm trong các chuỗi cung ứng dệt may đều phải phụ thuộc vào nhu cầu hàng dệt may của người tiêu dùng tại các nước phải áp dụng các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt nhất mà tại đó doanh số bán lẻ đã giảm mạnh. Năm 2019, khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã tuyển dụng khoảng 65 triệu công nhân dệt may, chiếm 75% tổng số công nhân dệt may trên toàn thế giới.

Thông tin về kết quả nghiên cứu, Giám đốc Văn phòng ILO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bà Chihoko Asada Miyakawa cho biết: “Nghiên cứu này nhấn mạnh đến tác động to lớn mà đại dịch Covid-19 gây nên đối với ngành dệt may ở mọi cấp độ. Vấn đề quan trọng là các chính phủ, người lao động, người sử dụng lao động và các bên liên quan khác trong ngành phải cùng nhau tìm cách xử lý những tình huống chưa từng có tiền lệ này và giúp tạo dựng một tương lai chú trọng hơn đến con người cho ngành dệt may”.

Mặc dù các chính phủ trong khu vực đã chủ động ứng phó khủng hoảng, nghiên cứu chỉ ra rằng vẫn có hàng nghìn các nhà máy trong khu vực đã phải đóng cửa tạm thời hoặc vĩnh viễn. Tình trạng cho công nhân nghỉ việc tạm thời và sa thải nhân công tăng mạnh; còn những nhà máy có thể hoạt động trở lại đa phần chỉ hoạt động với số lượng nhân công đã bị cắt giảm so với trước.

Ông Christian Viegelahn, chuyên gia Kinh tế Lao động của Văn phòng ILO khu vực châu Á và Thái Bình Dương, cho biết: “Trung bình, một nữ công nhân dệt may trong khu vực đã mất ít nhất hai đến bốn tuần làm việc, và ghi nhận chỉ có 3/5 số đồng nghiệp của mình được gọi trở lại làm việc khi nhà máy mở cửa hoạt động trở lại. Tình trạng giảm thu nhập và chậm trả lương cũng là tình trạng phổ biến của các công nhân dệt may vẫn có việc làm trong quý II năm 2020”.

Bên cạnh đó, báo cáo cũng xác định đại dịch Covid-19 đã tác động nặng nề đến phụ nữ, vốn là đối tượng chiếm số đông trong lực lượng lao động trong ngành này. Điều đó làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng vốn đã hiện hữu về thu nhập, trong khối lượng công việc, phân biệt nghề nghiệp và phân chia công việc chăm sóc không được trả công.

Mặc dù ngành dệt may ở châu Á thường được nhìn nhận là ngành có mức độ thương lượng tập thể thấp ở cả cấp độ ngành và ở cấp nhà máy, nhưng nghiên cứu vẫn lưu ý rằng đối thoại xã hội dường như lại hữu ích trong việc tăng cường ứng phó khủng hoảng ở những nước đã xây dựng các cơ chế đối thoại. 

Báo cáo kêu gọi cần thực hiện đối thoại xã hội mang tính bao trùm và thực chất hơn ở cấp quốc gia và cấp ngành ở mọi quốc gia trong khu vực. Bên cạnh đó, báo cáo cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng như việc mở rộng diện bao phủ của an sinh xã hội tới người lao động, đặc biệt là phụ nữ. 

Một sáng kiến quốc tế đa bên toàn cầu mới đây có tên gọi “Kêu gọi Hành động” do ILO thúc đẩy cũng được ghi nhận là một thí dụ đầy hứa hẹn về những nỗ lực đoàn kết trong nội bộ ngành trong xử lý khủng hoảng.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật